Viễn Phương là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, gắn bó cả đời với văn chương và kháng chiến. Thơ ông giàu cảm xúc, trữ tình, mộc mạc mà sâu sắc. Bài viết dưới đây khái quát về Tiểu sử, Phong cách sáng tác và một số nhận định về Nhà thơ Viễn Phương

Tiểu sử
– Viễn Phương (bút danh khác: Đoàn Viễn) là một nhà thơ nổi bật của nền văn học cách mạng Việt Nam. Quê gốc của ông ở quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang).
– Ngay từ thuở nhỏ, ông đã theo học và sớm tham gia cách mạng khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ. Ông gia nhập Chi đội 23 – một đơn vị hoạt động rộng khắp khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Những năm tháng chiến đấu gian khổ đã trở thành chất liệu sống động cho thơ ca của ông, với nhiều tác phẩm đăng trên Tiếng Súng Kháng Địch – tờ báo duy nhất của Khu 9 Nam Bộ thời đó.
– Năm 1952, ông giành giải Nhì thơ trong Giải thưởng Cửu Long với trường ca Chiến thắng Hòa Bình. Không lâu sau, tại Đại hội Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, ông được bầu vào Ban chấp hành.
– Sau năm 1954, ông được điều về hoạt động tại Sài Gòn. Trong thời gian này, ông vừa làm thơ, viết văn cho các tờ báo như Nhân Loại, Hừng Sáng, Công Lý, vừa kiếm sống bằng nghề dạy học và làm thuê. Do nội dung các sáng tác mang tư tưởng đấu tranh mạnh mẽ, ông bị chính quyền Sài Gòn bắt giam vào năm 1960 và bị giam tại nhà tù Chí Hòa. Trong tù, ông vẫn kiên trì sáng tác.
– Ra tù năm 1962, ông tiếp tục vào chiến khu Củ Chi, vừa chiến đấu, vừa làm thơ.
– Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), ông giữ nhiều trọng trách trong lĩnh vực văn học nghệ thuật: Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng TP.HCM, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật TP.HCM, và là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
– Bên cạnh thơ ca, Viễn Phương còn sáng tác văn xuôi, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc bằng giọng thơ mộc mạc, giàu cảm xúc và thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước.
Phong cách sáng tác
– Trong suốt hơn 30 năm gắn bó với cách mạng, Viễn Phương không chỉ là người lính cầm súng mà còn là người nghệ sĩ cầm bút, âm thầm dâng hiến trọn đời mình cho thơ văn. Với một tâm hồn nhạy cảm và giàu rung động, ông luôn nắm bắt tinh tế những cung bậc cảm xúc của con người, của đất nước trong chiến tranh cũng như hòa bình. Ông viết bằng cả trái tim, viết để sống, để khắc ghi những thời khắc thiêng liêng, và để góp một phần tiếng nói cho quê hương, dân tộc.
– Thơ và truyện ngắn là hai thể loại nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông, trong đó thơ ca là lĩnh vực mang lại dấu ấn sâu sắc nhất. Ngoài ra, thể loại bút ký của ông cũng được giới chuyên môn đánh giá cao bởi sự chân thực, lắng đọng và đậm chất nhân văn.
– Tiêu biểu nhất trong sự nghiệp của Viễn Phương là bài thơ Viếng Lăng Bác. Tác phẩm là tiếng lòng chân thành, xúc động của một người con miền Nam lần đầu ra thăm Lăng Bác, chất chứa trong đó niềm thành kính, niềm tự hào và nỗi tiếc thương sâu sắc. Với giọng thơ trang nghiêm, tha thiết, bài thơ không chỉ là khúc tưởng niệm của riêng tác giả, mà còn là sự đồng cảm của triệu con tim Việt Nam dành cho vị lãnh tụ kính yêu. Viếng Lăng Bác đã vượt qua giá trị một tác phẩm nghệ thuật, trở thành biểu tượng của tình cảm thiêng liêng, bất diệt mà nhân dân dành cho Bác Hồ.
– Phong cách thơ của Viễn Phương nhìn chung mộc mạc, giàu cảm xúc, đậm chất trữ tình cách mạng, luôn đặt con người trong mối quan hệ với quê hương, đất nước, với nhân dân, lý tưởng. Chính điều ấy đã giúp ông để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
Tác phẩm tiêu biểu
– Quê hương địa đạo, Lòng mẹ, Sắc lụa Trữ La, Phù sa quê mẹ, Ngàn say mây trắng, Miền sông nước, Tháng bảy mưa ngâu, Đá hoa cương, Thơ với tuổi thơ, Gió lay hương quỳnh, Ngôi sao xanh, Hình bóng thương yêu,…
Nhận định
– Nhà văn Mai Văn Tạo đã từng nhận xét: Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bị lụy, cường điệu nỗi đau…Thơ ông lung linh hình bóng người phụ nữ miền Nam và Mẹ. Ấn tượng nhiều mặt về người mẹ rất đậm đà, thắm thiết. Anh viết rất nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, những người phụ nữ trong các đề lao, người nữ chiến sĩ hy sinh trong ngọn lửa, những nữ học sinh Sài Gòn – Chợ Lớn “xuống đường” trong những ngày “bão tố đô thành”, người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng ở chiến khu, người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, bà mẹ đưa đường các anh bộ đội – bà mẹ ấy nói những lời rất thật, như dặn dò, như lời thề quyết tử: “Ðể má cầm đuốc đi trước, gặp giặc má chúc ngọn đuốc xuống, các con ở sau biết mà tránh. Nếu chúng bắn má chết, tức là chúng báo động các con” (Lời má Sáu). Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước… Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ.
