Nhà thơ Nguyễn Khuyến (Tiểu sử, phong cách sáng tác và đánh giá)

Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khuyến về tiểu sử, phong cách sáng tác, giải thưởng, nhận định và đánh giá về ông.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến (Tiểu sử, phong cách sáng tác và đánh giá)

Tiểu sử 

– Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại làng Văn Khê, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (quê ngoại). Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại quê nhà Yên Đổ.

– Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, ham học. Cha là Nguyễn Tông Khởi (tức Mền Khởi), đỗ ba khóa tú tài, làm nghề dạy học. Mẹ là bà Trần Thị Thoan, con gái của Trần Công Trạc, cũng từng đỗ tú tài dưới triều Lê – Mạc. Nguyễn Khuyến từng học cùng Trần Bích San và Phạm Văn Nghị, những danh sĩ nổi tiếng đương thời.

– Năm 1864, ông đỗ Giải nguyên (đầu cử nhân) trường Hà Nội. Sau lần trượt thi Hội năm 1865, ông đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến để tự nhắc mình phải nỗ lực hơn. Đến năm 1871, ông lần lượt đỗ Hội nguyên, Đình nguyên trở thành Tam Nguyên Yên Đổ, một vinh danh hiếm có trong lịch sử khoa cử Việt Nam.

– Sau khi thi đỗ, ông lần lượt được bổ nhiệm các chức vụ: Đốc học, Án sát Thanh Hóa, rồi Bố chính Quảng Ngãi. Tuy nhiên, không lâu sau ông cáo quan, về sống ẩn dật tại quê nhà từ năm 1884.

– Nguyễn Khuyến được ngợi ca là người thanh liêm, chính trực, gắn bó sâu sắc với nhân dân và quê hương. Ông có tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên và có tình bạn tri kỷ nổi tiếng với Dương Khuê. Những phẩm chất đạo đức cao quý cùng sự nghiệp văn chương để đời đã khiến ông trở thành hình mẫu của người trí thức Nho học cuối thế kỷ XIX.

Phong cách sáng tác

– Nguyễn Khuyến là một nhà thơ Nôm xuất sắc, đồng thời là cây bút tiêu biểu của văn học trữ tình dân tộc cuối thế kỷ XIX. Thơ ông thấm đượm tình yêu nước, thương dân và đặc biệt gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, với những vần thơ giàu chất quê, đậm hồn dân tộc.

– Ra làm quan giữa thời kỳ đất nước rơi vào tay thực dân, chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, ông chọn cách cáo quan về quê ở ẩn để giữ trọn nhân cách. Trong cuộc sống ẩn dật ấy, thơ ông trở thành tiếng nói của một tâm hồn đau đáu vì dân, vì nước. Thơ Nguyễn Khuyến không mang tiếng kêu bi lụy, mà là nỗi buồn sâu lắng, trĩu nặng của một người trí thức bất lực trước thời cuộc.

– Thơ ông giàu hình ảnh thiên nhiên đồng quê, mộc mạc mà thanh cao, giàu nhạc điệu mà vẫn đậm tính hiện thực. Ngoài nỗi niềm yêu nước âm thầm nhưng sâu sắc, thơ ông còn chứa chan tình bạn, tình cảm gia đình, và đặc biệt là sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

– Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) thuộc chùm thơ thu nổi tiếng của ông. Bài thơ được sáng tác khi ông đã lui về quê nhà, mang đậm phong vị mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ thể hiện vẻ đẹp tĩnh lặng, tinh tế của thiên nhiên, đồng thời gửi gắm tâm trạng u hoài và tình yêu sâu nặng với đất nước. Đây là minh chứng tiêu biểu cho phong cách “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc trong thơ Nguyễn Khuyến.

Tác phẩm chính

– Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.

– Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

– Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau.

– Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương.

– Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình.

Nhận định

– Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. (Xuân Diệu)

– Cho đến khí vị thanh đạm…, đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm của ông đối với đời sống lao động của người nông dân. (Lê Trí Viễn).

– Làng quê Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng, thanh đạm, hồn hậu. Mỗi màu sắc, đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng là nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc của mùa thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân. (Nguyễn Đức Quyền).

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *